THS. TRẦN VĂN DUY – Bộ môn Luật Kinh tế, Học viện Chính sách và Phát triển
THS. NGUYỄN HƯƠNG LAN – Ban Pháp chế BIDV
I. Vướng mắc trong giải quyết hợp đồng vay tài sản
Trong thời gian qua, do áp dụng các quy định của Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và hướng dẫn của Toà án nhân dân (TAND) tối
cao nên việc giải quyết tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản
(HĐVTS) của ngành Toà án đã có sự biến chuyển tích cực: giảm tỉ lệ bản
án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa án, huỷ án; các bản án có hiệu lực pháp
luật cũng ít sai sót nên tỉ lệ án bị giám đốc thẩm cũng giảm nhiều. Tuy
nhiên, trong thời gian gần đây (từ năm 2005 đến nay), các Toà án đã gặp
một số khó khăn, vướng mắc khi giải quyết tranh chấp về HĐVTS.
Thứ nhất, sự biến tướng của hợp đồng vay tài sản
HĐVTS do các đương sự ký kết bị biến tướng thành hợp
đồng dân sự khác (giả tạo) nhưng lại được chính pháp luật dân sự thừa
nhận khi phát sinh tranh chấp. Đơn cử như TAND Thành phố Hồ Chí Minh
phát hiện nhiều vụ án dân sự về HĐVTS nhưng khi thực hiện giao dịch thì
bên cho vay yêu cầu bên vay phải ký kết dưới dạng hợp đồng đặt cọc mua
bán nhà hoặc hợp đồng mua bán nhà. Đồng thời, bên cho vay thu giữ giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên
vay. Khi đến hạn trả nợ, nếu bên vay không trả vốn và lãi thì bên cho
vay yêu cầu tiến hành thủ tục mua bán nhà (hoặc hợp đồng đặt cọc mua bán
nhà). Khi giải quyết những vụ này, nguyên đơn có nhiều thuận lợi hơn về
chứng cứ (do các chứng cứ này đã được công chứng hoặc chứng thực) và
thường được Toà án chấp nhận yêu cầu của họ, cho dù Toà án biết rõ đó là
hợp đồng giả tạo để che giấu một hợp đồng khác. Lãi suất trong các hợp
đồng này thường rất cao so với quy định của Điều 476 BLDS năm 2005. Ví
dụ như vụ bà Nguyễn Thị Đ ở Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh từng mất nhà
vì vay tiền của một người chuyên cho vay nặng lãi tại khu vực Hoà Hưng.
Bà kể: “Lúc mới vay chủ nợ dễ dãi lắm, cần bao nhiêu tiền cũng đưa ngay.
Lúc tôi không có tiền để đóng lãi cũng được bà ta đưa tiền để đóng lãi
lại cho bà ta. Khi nợ lên đến hơn 500 triệu thì bà ta mới gộp mấy cái
giấy nợ nói giờ phải viết lại thành giấy bán nhà”. Nghe giải thích của
chủ nợ là ký giấy bán nhà chỉ trên hình thức mà thôi, nên bà Đ đã tin
tưởng. Nào ngờ mới quá hạn trả nợ có mấy ngày là chủ nợ trở mặt đòi lấy
nhà. Bà Đ không chịu nên bị kiện ra toà và bị toà tuyên thua kiện, phải
bán nhà cho chủ nợ với giá chỉ bằng một nửa giá thị trường.
Sở dĩ bên cho vay buộc con nợ phải ký hợp đồng bán
nhà (thường là giá rẻ hơn nhiều so với giá thị trường) là nhằm bảo đảm
lợi ích của bên cho vay, thường là những đối tượng chuyên cho vay nặng
lãi. Nếu chỉ ký hợp đồng thông thường với lãi suất cao, khi người vay
không trả được nợ, bên cho vay kiện ra Toà án thì Toà án thường tuyên
buộc con nợ phải trả nợ gốc và lãi với mức lãi suất tính tối đa cũng chỉ
bằng 150% mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng quy định. Chính vì vậy, để
“cột” nghĩa vụ của con nợ, chủ nợ thường ép con nợ phải ký giấy bán nhà,
nếu không trả được nợ thì sẽ mất nhà. Vì thế, theo chúng tôi, khi tiến
hành thu thập và đánh giá chứng cứ trong các hợp đồng đặt cọc mua bán
nhà, nếu có đủ chứng cứ để kết luận những hợp đồng trên giả tạo thì Toà
án có thể áp dụng các quy định của Điều 129 và Điều 137 BLDS năm 2005 để
tuyên bố vô hiệu và chuyển sang xét xử HĐVTS với lãi suất cơ bản để
buộc bên vay trả cho bên cho vay.
Thứ hai, xác định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với hợp đồng vay tài sản
Theo Điều 25 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật
HNGĐ) quy định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch dân
sự do một bên thực hiện. Tuy nhiên, cho đến nay thì chỉ có một căn cứ
duy nhất để có thể xác định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với
giao dịch do một bên thực hiện, đó là “…nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu của gia đình”. Thực tế xét xử cho thấy, nguyên đơn thường
không đủ chứng cứ để có thể chứng minh khoản tiền mà họ cho vay đã được
bị đơn sử dụng để “… nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình”. Vì vậy, thông thường Toà án chỉ buộc được một bên (vợ hoặc chồng)
phải trả nợ cho nguyên đơn. Điều này dẫn đến hậu quả là sau khi giải
quyết những vụ án này, việc thi hành án sẽ không thể thực hiện được vì
người vợ (hoặc chồng) không chấp nhận bán tài sản chung để cho người kia
thi hành án. Trong những trường hợp này, cơ quan thi hành án thường
phải để vợ chồng họ tự phân chia tài sản hoặc phải chờ bản án của Toà án
xét xử phân chia tài sản chung của vợ chồng để có căn cứ thi hành án.
Nếu họ không tự phân chia hoặc không yêu cầu Toà án phân chia thì việc
thi hành án sẽ bị kéo dài, gây thiệt hại cho nguyên đơn.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, phương án lấy giá
trị tài sản giao dịch để làm căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng
của người chồng (hoặc vợ) trong vụ án tranh chấp về HĐVTS mà chỉ có
chồng (hoặc vợ) giao kết với nguyên đơn là hiệu quả nhất. Tiếp đó, căn
cứ vào giá trị tài sản giao dịch, Toà án có thể đánh giá chứng cứ để từ
đó xác định trách nhiệm liên đới của cả hai vợ chồng đối với nguyên đơn
trong quan hệ vay tài sản. Điều 27 Luật HNGĐ đã có quy định về tài sản
chung của vợ chồng. Khoản 2, 3 Điều 28 Luật HNGĐ cũng quy định việc thoả
thuận bàn bạc của vợ chồng trong việc sử dụng tài sản chung có giá trị
lớn.
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra, là trong các tranh
chấp về HĐVTS, trường hợp nào thì xác định tài sản có giá trị lớn? Nếu
đã xác định tài sản có giá trị lớn thì khi thụ lý, Toà án có cần phải
triệu tập vợ (hoặc chồng) của bị đơn (là người vay tài sản) vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hay
không? Trong trường hợp nào thì cả vợ (chồng) của người vay tài sản được
xác định là đồng bị đơn?
Ví dụ, Bản án dân sự sơ thẩm số 26/DSST ngày
22/8/2005 của TAND quận Tân Bình xét xử tranh chấp về HĐVTS là 20 triệu
đồng giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Bích và bị đơn là bà Phan Thị Ánh.
Vì cho rằng khoản tiền này là tài sản có giá trị lớn và là tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nên Toà án đã triệu tập ông
Đương Đức Khiêm (chồng bà Ánh) vào tham gia tố tụng với tư cách là người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, và bản án này đã buộc ông Khiêm liên
đới với bà Ánh trả nợ. Nhưng bản án dân sự phúc thẩm số 134/DSPT ngày
05/12/2005 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định rằng số nợ trên
không phải là tài sản có giá trị lớn nên đã sửa án sơ thẩm, xác định chỉ
có bà Ánh chịu trách nhiệm trả nợ cho bà Bích.
Thứ ba, hợp đồng vay tài sản có bảo đảm của người thứ ba
Trường hợp bên vay tài sản chết mà không để lại di
sản thừa kế thì nguyên đơn có quyền khởi kiện người thừa kế đòi lại tài
sản hay không? Trường hợp bên vay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
trả nợ thì nguyên đơn có quyền khởi kiện người bảo lãnh được không?
Trường hợp bên nhận nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay nhưng chưa thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay thì nguyên đơn có quyền khởi kiện bên nào? Bên
người vay hay người nhận nghĩa vụ trả nợ cho người vay? Trường hợp bên
nhận nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay đã thực hiện được một phần nghĩa
vụ trả nợ rồi sau đó không trả tiếp, nguyên đơn có quyền khởi kiện người
vay hay không?
Ví dụ, ông H ký hợp đồng ngày 30/4/2004 vay 20 lượng
vàng SJC của ông K với thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 3%/tháng. Ông H
đã trả được 03 tháng tiền lãi. Ngày 01/01/2005, ông H bị bệnh và mất, bà
Y (là vợ) và 02 con là M, N được hưởng thừa kế gồm: 01 căn nhà, số dư
nợ 250 triệu đồng của ông H với Công ty TNHH TM-DV Z. Về số tiền này thì
công ty ký biên bản, thoả thuận trả nợ thay cho các thừa kế của ông H
(biên bản lập ngày 30/6/2005) nhưng sau đó, công ty không thực hiện. Ông
K nhận thấy bà Y và 02 con là M, N vẫn còn khả năng trả được nợ nên đã
kiện ra TAND quận. Bản án sơ thẩm nhận định, họ là người thừa kế nên
phải có nghĩa vụ trả nợ cho ông K. Mặc dù trước đó giữa Công ty Z và bà Y
cùng 02 con đã thỏa thuận chuyển nghĩa vụ trả nợ cho Công ty, nhưng bên
Công ty Z đã không thực hiện.
Trường hợp này, những người thừa kế hợp pháp phải có
nghĩa vụ trả nợ cho người chết theo Điều 637 BLDS năm 2005. Còn việc
chuyển giao nghĩa vụ như trên là không hợp pháp vì lúc này, không có sự
đồng ý của bên có quyền. Do đó, ông K kiện bà Y và 02 con bà Y là hợp
pháp. Sau đó, bà Y có quyền kiện công ty Z để đòi số nợ dư là 250 triệu
đồng.
II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản
Không thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của chế
định hợp đồng nói chung, và HĐVTS nói riêng đối với việc bảo đảm sự công
bằng, hài hoà lợi ích của mọi chủ thể trong giao lưu dân sự. Nó không
chỉ là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp hợp đồng mà còn góp
phần xây dựng nên ý thức pháp luật của người dân. Sự ra đời của BLDS năm
1995 cũng như những cố gắng đóng góp trong việc sửa đổi BLDS năm 2005
đánh dấu bước quan trọng trong việc ghi nhận và bảo đảm có tính pháp lý
cao nhất của Nhà nước đối với quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân
và tổ chức. Chiếm vị trí xương sống của Bộ luật, chế định hợp đồng nói
chung và chế định HĐVTS nói riêng thể hiện nhiều tư tưởng pháp lý tiến
bộ và khoa học. Thực tế, chế định HĐVTS đã góp phần tích cực trong việc
giải quyết hàng trăm nghìn vụ án tranh chấp, bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa, thể hiện tính công minh của pháp luật. Nhưng thực tế cũng cho
thấy, nhiều tranh chấp đã không được giải quyết thoả đáng, kịp thời, gây
khiếu kiện kéo dài, làm giảm sút niềm tin vào tính nghiêm minh và đúng
đắn của pháp luật. Thiệt hại là công lý chưa bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể. Bởi vậy, việc hoàn thiện những quy định
của chế định HĐVTS được xem là nhiệm vụ có tính cấp bách và kịp thời.
1. Đối tượng của hợp đồng
Pháp luật cần có quy định rõ ràng về nội dung ngoại
tệ có được xem là đối tượng của HĐVTS hay không. Nếu cấm việc sử dụng
đối tượng vay của HĐVTS là ngoại tệ thì phải có sự kết hợp giữa quy định
của pháp luật với các biện pháp xử lý cụ thể trong thực tiễn để tránh
trường hợp pháp luật thì cấm nhưng trên thực tế điều này vẫn diễn ra
thường xuyên và phổ biến.
Các quy định về HĐVTS cần phải bao quát cả đến các
quan hệ cho vay giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng mà theo quy
định của pháp luật, tổ chức tín dụng là tổ chức được phép hoạt động
ngoại hối. Vì thế việc bổ sung thêm đối tượng của HĐVTS vào Điều 471
BLDS năm 2005 là cần thiết. Ngoài ra, cần quy định cụ thể và tách bạch
các đối tượng là vàng, kim khí quý, đá quý và không để chung trong đối
tượng là vật. Việc tách bạch như vậy sẽ giải quyết được vấn đề lãi suất
trong HĐVTS có đối tượng là vàng – một vấn đề mà BLDS hiện hành vẫn còn
đang bỏ ngỏ.
Từ những lý giải trên, chúng tôi đề nghị sửa lại Điều 471 BLDS năm 2005 như sau:
1. HĐVTS là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó
bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền là nội tệ hoặc ngoại tệ, các
giấy tờ có giá như tiền, vàng, kim khí quý, đá quý hoặc vật; khi đến
hạn trả, bên vay phải hoàn trả tiền, các giấy tờ có giá hoặc vàng, kim
khí quý đá quý, vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và trả lãi
theo thoả thuận.
2. Đối với những HĐVTS có đối tượng là ngoại tệ
khi giao kết phải tuân theo quy định pháp luật của Nhà nước về quản lý
ngoại hối.
Nếu việc hạn chế sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch được sửa đổi theo hướng thông thoáng thì có thể bỏ khoản 2.
2. Hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng là một trong những vấn đề mang
tính lý luận phức tạp của chế định hợp đồng. Tầm quan trọng của chúng
không chỉ dừng lại ở giá trị chứng cứ khi nảy sinh tranh chấp mà còn
liên quan đến việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, vấn đề
hợp đồng vô hiệu, hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu về hình thức. Mặc
dù BLDS đã có những quy định về hình thức hợp đồng, trong đó ghi nhận
rõ ràng các hình thức, nhưng nhìn chung, toàn bộ quy định liên quan về
hình thức của hợp đồng chưa thể hiện được quan điểm pháp lý mang tính
toàn diện và hệ thống. Số lượng những vụ tranh chấp tại HĐVTS chủ yếu là
hợp đồng miệng, bằng lời nói. Thực tế xét xử cho thấy, các HĐVTS giao
kết bằng lời nói nhiều hơn các hợp đồng giao kết bằng văn bản. Đối với
những hợp đồng giao kết bằng lời nói, nếu không có bên thứ ba làm chứng,
sẽ tạo rất nhiều khó khăn cho thẩm phán trong quá trình điều tra, thu
thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp. Do vậy, BLDS cần quy định chi
tiết hơn về hình thức của HĐVTS để tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án có
cơ sở pháp lý khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐVTS; đồng thời
đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên, bên vay không còn lý do để
từ chối việc vay mượn của mình, còn bên cho vay không thể ép buộc bên
vay hoặc lợi dụng giấy tờ vay nợ không rõ ràng để đi đòi nợ. Đây là giao
dịch hết sức phổ biến của đời sống dân sự, dễ có những xung đột về lợi
ích giữa các chủ thể. Mặt khác, việc quy định HĐVTS phải được lập thành
văn bản thống nhất với quy định liên quan tại Mục 5 Chương XVII BLDS về
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bởi vậy, một bản HĐVTS được ký kết
với những điều khoản được quy định rõ ràng là căn cứ xác đáng nhất để
các bên thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực và tự nguyện.
3. Nghĩa vụ của bên cho vay
Khoản 3 Điều 473 BLDS năm 2005 quy định: “Bên cho vay
không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn trừ trường
hợp quy định ở Điều 478 của Bộ luật này”. Thực ra quyền yêu cầu trả lại
tài sản trước thời hạn không chỉ được quy định ở Điều 478 mà còn được
quy định ở Điều 475. Tuy nhiên, việc đòi lại tài sản trước thời hạn là
quyền của bên cho vay khi thoả mãn các điều kiện do các bên thoả thuận
hoặc pháp luật quy định. Không có quyền không có nghĩa là người cho vay
phải có nghĩa vụ đối lập với quyền đó. Do đó, để tránh sự trùng lặp và
đảm bảo được sự khái quát của tên điều luật đối với nội dung thì việc
quy định như ở Khoản 3 Điều 473 là không cần thiết. Bên cạnh đó, Khoản 1
và Khoản 2 Điều 473 quy định như vậy là quá chung chung. Do đó, Điều
473 nên quy định như sau:
Bên cho vay có các nghĩa vụ sau đây:
1. Trong trường hợp cho vay tài sản là tiền hoặc
các giấy tờ có giá như tiền, thì phải giao tiền cho bên vay đầy đủ, đúng
thời hạn đã thoả thuận;
2. Trong trường hợp tài sản cho vay là vàng, kim
khí quý, đá quý hoặc vật, thì phải giao tài sản đúng số lượng, chất
lượng, thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận, nếu:
a. Vay không có lãi mà tài sản vay không bảo đảm
chất lượng do có khuyết tật, nếu bên cho vay ngay tình không biết về
khuyết tật của tài sản, thì bên cho vay không có nghĩa vụ đổi lại tài
sản vay; trong trường hợp bên cho vay biết tài sản có khuyết tật mà vẫn
cho vay thì phải đổi lại tài sản;
b. Vay có lãi mà tài sản không đảm bảo chất lượng, thì bên cho vay có nghĩa vụ đổi lại tài sản vay và bồi thường thiệt hại.
3. Đối với HĐVTS có lãi, khi đến hạn trả nợ mà
bên vay không thực hiện nghĩa vụ, thì bên cho vay không được thoả thuận
với bên vay nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi vào thời gian tiếp theo.
4. Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 475 của Bộ luật này.
4. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
Khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005 quy định: “Trong
trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả
không đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm
trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận”.
Trong hợp đồng vay có thời hạn mà khi đến hạn, bên
vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và bên cho vay không đồng ý cho vay
tiếp thì bên vay đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Theo quy định tại Khoản 2
Điều 305 BLDS năm 2005 thì: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả
tiền thì bên đó phải trả lãi cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương
ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Trong trường hợp này, vì trước đó giữa các bên đã
thoả thuận một hợp đồng cho vay có kỳ hạn và không có lãi, nếu khi đến
hạn, bên vay không trả nợ mà áp dụng lãi suất nợ quá hạn sẽ không tương
xứng với việc áp dụng chế tài trong trường hợp các bên đã thoả thuận
trước đó về hợp đồng vay có thời hạn và có lãi. Do đó, khi đến hạn mà
bên vay không thực hiện nghĩa vụ thì chỉ nên áp dụng lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả như Khoản 4
Điều 474 là hợp lý, và đây cũng được coi là trường hợp pháp luật có quy
định khác của Khoản 2 Điều 305.
Đối với hợp đồng vay có lãi và có kỳ hạn, Khoản 5
Điều 474 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến
hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi
trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”. Quy định như
Khoản 5 đã dẫn đến hai cách hiểu khác nhau về cách tính lãi đối với hợp
đồng vay có kỳ hạn và có lãi trong trường hợp bên vay không trả hoặc
không đầy đủ:
Cách 1: Lãi = lãi suất thoả thuận x nợ gốc + lãi
suất nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố x nợ
gốc x thời hạn vay
Cách 2: Lãi = (nợ gốc lãi) x lãi suất nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố x thời hạn vay.
Cả hai cách hiểu trên là chưa chính xác, vì:
- Tiền lãi về nguyên tắc chỉ được tính trên nợ gốc
(Khoản 2 Điều 209 BLDS năm 2005 quy định: “Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả
tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”).
- Nếu tính lãi suất nợ quá hạn thì phải tính theo thời gian chậm trả chứ không được tính trên thời hạn vay.
Có ý kiến cho rằng “tương ứng với thời hạn vay” tức
là khoảng thời gian này tương ứng với thời hạn của loại cho vay nào
(ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) của Ngân hàng Nhà nước quy định thì áp
dụng mức trần lãi suất cho vay của loại vay đó. Ý kiến như vậy là không
hợp lý bởi lẽ “tương ứng với thời hạn vay” phải được hiểu là tương ứng
với khoảng thời gian do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định, mà
trong khoảng thời gian đó, bên vay được quyền sở hữu tài sản của bên cho
vay. Bên cạnh đó, tại Khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005 cũng đã quy định
là tính lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng
với thời hạn chậm trả. Như vậy, ngay trong cùng một điều luật, việc quy
định đã không có sự thống nhất.
Do đó, Điều 474 Nghĩa vụ trả nợ của bên vay nên quy định như sau:
1. Bên vay tài sản là tiền hoặc các giấy tờ có giá như tiền, thì phải trả đủ tiền hoặc các giấy tờ có giá như tiền khi đến hạn;
2. Trong trường hợp vay tài sản là vàng, kim khí
quý, đá quý hoặc vật, thì phải trả tài sản cùng loại theo đúng số lượng,
chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
3. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật
hoặc các tài sản khác không phải là tiền, thì có thể trả bằng tiền theo
giá trị của vật hoặc tài sản đã vay tại thời điểm trả nợ, nếu được bên
cho vay đồng ý;
4. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
5. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến
hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi
đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, trừ trường
hợp các bên có thoả thuận khác.
6. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay
không trả hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc
tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.
5. Sử dụng tài sản vay
Điều 475 BLDS năm 2005 quy định: “Các bên có thể thoả
thuận về việc tài sản vay và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời
hạn, nếu đã vướng mắc mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích”.
Ở đây, điều luật đã không quy định hậu quả pháp lý
trong trường hợp này sẽ giải quyết như thế nào. Nếu là vay có kỳ hạn và
có lãi thì khi đòi lại tài sản vay trước kỳ hạn, bên cho vay có được trả
lãi không? Nếu được thì tính đến thời điểm nào, thời điểm trả tài sản
hay phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn?
Trong trường hợp này, nên coi đây là một căn cứ để
bên cho vay đơn phương đình chỉ hợp đồng. Khi đó, các bên sẽ giải quyết
hậu quả của chấm dứt hợp đồng, tức là bên cho vay tài sản có quyền lấy
lại tài sản, được hưởng lãi đến thời điểm chấm dứt hợp đồng và có thể
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều này nên được sửa theo hướng sau:
“Các bên có thể thoả thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng
mục đích vay; bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có
quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử
dụng tài sản trái mục đích”.
6. Lãi suất
Trong HĐVTS thì lãi suất là một yếu tố rất quan trọng
vì nó là cơ sở để tính lãi và đa số các tranh chấp về HĐVTS có nguyên
nhân từ lãi, mức lãi suất. Trên thực tế, quan hệ vay tài sản nói chung
rất phong phú, đa dạng, mức lãi suất được xem là phù hợp mà các bên tham
gia giao dịch đưa ra và có thể cùng chấp nhận được chịu ảnh hưởng bởi
rất nhiều yếu tố.
Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên
thoả thuận, tuy nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và
cũng tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc
trong trường hợp không có cơ sở xác định rõ mức lãi đã thoả thuận, BLDS
năm 2005 có quy định về mức lãi suất tại Khoản 1 Điều 476: “Lãi suất vay
do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. BLDS
năm 2005 sử dụng khái niệm “lãi suất cơ bản” để làm căn cứ viện dẫn khi
xác định lãi suất trong HĐVTS. Tuy vậy, lãi suất cơ bản hiện nay không
còn phù hợp, bởi:
- Cơ chế điều hành lãi suất bằng cách giao cho Ngân
hàng Nhà nước ban hành mức lãi suất cơ bản như cách quy định của BLDS
năm 2005 là không còn phù hợp do việc xác định lãi suất tiền vay trong
thực tế hiện nay đã có nhiều biến động và chịu chi phối mạnh mẽ của quy
luật thị trường, vượt xa những dự liệu của nhà làm luật khi ban hành
BLDS năm 2005. Bản thân các quy định về lãi suất cơ bản, suy cho cùng,
cũng chỉ là kết quả tham khảo từ lãi suất thị trường liên ngân hàng ở
Việt Nam, nhưng thực chất lại thường mang tính chủ quan của cơ quan quản
lý, không theo kịp lãi suất thực tế diễn ra trên thị trường và đôi khi
tỏ ra lạc hậu rất xa so với thực tế.
- Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước cũng như sự thay đổi trong các quan hệ cung – cầu trong thị
trường vốn, theo hướng ngày càng tiến dần đến với những đòi hỏi khách
quan của loại quan hệ này, đòi hỏi cần có sự thay đổi căn cứ xác định
lãi suất thích ứng. Sắp tới, Nhà nước sẽ không điều hành lãi suất theo
cơ chế công bố lãi suất cơ bản như từ trước tới nay, nên căn cứ áp dụng
lãi suất cơ bản trong BLDS hiện hành không còn khả thi.
- Về mặt kỹ thuật, nhiều điều luật quy định về lãi
suất trong BLDS năm 2005 không được trình bày chặt chẽ, có thể được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng và thực thi
pháp luật.
Bên cạnh đó, hiện nay ở từng thời điểm nhất định,
Ngân hàng Nhà nước chỉ công bố một mức lãi suất cơ bản nhất định duy
nhất để các tổ chức tín dụng tham khảo ấn định lãi suất kinh doanh và
định hướng lãi suất thị trường. Ngân hàng Nhà nước không công bố các mức
lãi suất cơ bản khác nhau tương ứng với từng loại cho vay ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn. Do vậy, chúng tôi đề nghị bỏ cụm từ “đối với loại
cho vay tương ứng”.
Ngoài ra, Khoản 1 Điều 476 BLDS hiện hành chưa xác
định cụ thể hậu quả pháp lý của việc vi phạm quy định của pháp luật về
lãi suất trong hợp đồng. Nội dung Khoản 1 Điều 476 chưa xác định rõ chế
tài khi các bên thoả thuận mức lãi suất trong HĐVTS vượt quá lãi suất
quy định. Vấn đề này còn nhiều cách hiểu và cách vận dụng khác nhau:
Một là, nếu thoả thuận trong hợp đồng vượt quá mức
lãi suất quy định, thì phần vượt quá đó sẽ được cơ quan áp dụng pháp
luật tính lại cho bằng với mức lãi suất quy định. Như vậy, nội dung của
điều khoản này bị vô hiệu một phần, đó là phần vượt mức lãi suất quy
định và phần vô hiệu này không ảnh hưởng đến toàn bộ điều khoản lãi suất
của hợp đồng.
Hai là, nếu thoả thuận về điều khoản lãi suất trong
hợp đồng là vi phạm pháp luật, thì nội dung của thoả thuận này bị xem là
vô hiệu tuyệt đối. Và nếu toàn bộ điều khoản lãi suất vô hiệu, thì coi
như hợp đồng vay không có lãi.
Ba là, nếu các bên thoả thuận vượt quá mức lãi suất
quy định, rồi không nhất trí với nhau về mức lãi suất đó, dẫn đến tranh
chấp tại Toà án, thì phải áp dụng Khoản 2 Điều 476 là có sự tranh chấp
về lãi suất, thì lãi suất phải được Toà án xác định lại theo lãi suất cơ
bản, chứ không phải tính lại cho bằng với 150% lãi suất cơ bản.
Khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 quy định: “Trong
trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định
rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản
do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm
trả nợ”.
Như vậy, “có tranh chấp về lãi suất” ở đây được hiểu
là gì? Nếu các bên thoả thuận mức lãi suất quá cao và sau đó bên vay lại
không chấp nhận mức lãi suất đó nữa và khởi kiện thì giải quyết như thế
nào? Sẽ áp dụng mức lãi suất có kỳ hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định
như tại Khoản 2 hay áp dụng mức lãi suất bằng 150% mức lãi suất cao nhất
do Ngân hàng Nhà nước quy định như quy định tại Khoản 1 và các văn bản
khác? Để tránh cho việc hiểu sai dẫn đến việc áp dụng khác nhau về vấn
đề này, khoản 2 Điều 476 nên bỏ cụm từ “hoặc có tranh chấp về lãi suất”.
Việc tính lãi trong HĐVTS có đối tượng là vàng thì
vẫn đang bị bỏ ngỏ. Thực tế chưa có văn bản hướng dẫn và hiện nay cũng
chưa có quy định nào của Nhà nước quy định về vấn đề này áp dụng cho đối
tượng là vàng, điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan khi
áp dụng và giải quyết, nên pháp luật cần có quy định ngay về vấn đề này.
Vì BLDS có vai trò quan trọng trong việc ổn định các
quan hệ dân sự trong xã hội, bảo đảm sự an toàn pháp lý trong quan hệ
dân sự, nên cần phải có những điều khoản được quy định thật chặt chẽ,
đảm bảo tính ổn định và giá trị lâu bền của Bộ luật. Do vậy, với những
bất cập nói trên, cần thiết phải tìm kiếm một mức lãi suất phù hợp để
làm căn cứ cho việc xác định lãi suất trong BLDS và để viện dẫn về lãi
suất trong các HĐVTS.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Bạn đọc khi trình bày quan điểm của mình về các vấn đề được nêu trong bài viết vui lòng chú ý những quy định sau:
1/ Ngôn ngữ sử dụng phù hợp với văn hóa người Việt Nam.
2/ Không dùng những lời lẽ quá khích,trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
3/ Gõ tiếng Việt có dấu.
4/ Nhận xét vi phạm sẽ bị xoá.
5/ Khuyến khích các bạn dùng địa chỉ e-mail cá nhân khi đăng nhận xét vào bài viết.
Thân ái!